Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ. Khác với phương pháp sinh con tự nhiên, việc xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp này có một số điểm khác biệt theo quy định pháp luật.
1. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là gì?
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm. Việc thụ thai sẽ không cần đến quá trình sinh hoạt sinh lý bình thường mà có thể diễn ra bất kỳ lúc nào. Trong đó:
- Thụ tinh nhân tạo tức là thủ thuật bơm tinh trùng của người chồng hoặc người cho tinh trùng vào tử cung của người phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi.
- Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi, theo đó tinh trùng là giao tử của nam, noãn là giao tử của nữ, phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.

Việc thụ thai sẽ không cần đến quá trình sinh hoạt sinh lý bình thường
2. Những trường hợp được sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Pháp luật cho phép sinh con bằng phương pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp: Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân.
2.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh
Cặp vợ chồng vô sinh có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa với một số lưu ý như sau:
- Thứ nhất, “vô sinh” được hiểu là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai. Như vậy, phải có thời gian chung sống trong hôn nhân ít nhất là một năm mà người vợ không mang thai thì mới được sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Thứ hai, người chồng hoặc người vợ trong những cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh có quyền gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi trong cơ sở lưu giữ, nếu người gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi chết thì vợ hoặc chồng của người đó có quyền đề nghị lưu giữ, bảo quản tinh trùng, noãn, phôi.
- Thứ ba, trong trường hợp ly hôn, người gửi đề nghị hủy tinh trùng, noãn của chính mình thì phải hủy tinh trùng, noãn của người đó; riêng đối với phôi, nếu muốn hủy thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cả hai vợ chồng, nếu muốn tiếp tục lưu giữ thì phải có đơn đề nghị lưu giữ và vẫn duy trì đóng phí lưu giữ, bảo quản.
- Thứ tư, người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh được quyền:
+ Nhận tinh trùng nếu nguyên nhân vô sinh là do người chồng;
+ Nhận noãn nếu nguyên nhân vô sinh là do người vợ không có noãn hoặc noãn không đảm bảo chất lượng để thụ thai;
+ Nhận phôi nếu nguyên nhân vô sinh là do cả người vợ và người chồng hoặc vợ chồng đã thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhưng bị thất bại.
2.2. Đối với phụ nữ độc thân
Phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Theo đó, phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật. Nghĩa là, tại thời điểm đó, người phụ nữ không kết hôn với bất kỳ ai.

Phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Pháp luật cho phép người phụ nữ độc thân được quyền:
- Nhận tinh trùng từ người hiến tinh trùng khi họ có nhu cầu sinh con và noãn của họ đảm bảo chất lượng để thụ thai;
- Nhận phôi nếu họ không có noãn hoặc noãn không đảm bảo chất lượng để thụ thai.
3. Xác định cha, mẹ cho con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Việc xác định cha, mẹ cho con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được thực hiện theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
3.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh
Trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ cho con như sau:
- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng;
- Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Trong đó, thời điểm chấm dứt hôn nhân là thời điểm bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, hoặc là thời điểm vợ hoặc chồng chết.
Như vậy, có nghĩa là người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ đứa trẻ trong mọi trường hợp kể cả người mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hay nhận phôi của người khác và người chồng hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha đứa trẻ, ngay cả trường hợp người chồng không phải là người cho tinh trùng.
Lưu ý, đối với trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng hỗ trợ kỹ thuật sinh sản.
Tóm lại, đối với cặp vợ, chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì căn cứ xác định cha, mẹ, con được xác định trên căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
3.2. Đối với phụ nữ độc thân
Phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con được quyền nhận tinh trùng nếu noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai. Nếu họ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai thì được quyền nhận phôi.

Phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con được quyền nhận tinh trùng
Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra. Cũng có nghĩa là, người phụ nữ sống độc thân đương nhiên là mẹ của đứa trẻ kể cả trường hợp người phụ nữ đó không có noãn, hoặc phải xin phôi do noãn không đảm bảo chất lượng để thụ thai thì họ vẫn được xác định là mẹ của đứa con sinh ra.
3.3. Đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi
Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra.
Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời thực sự đã mang lại hạnh phúc lớn lao cho biết bao cặp vợ chồng. Song song với đó, việc xác định cha, mẹ cho con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng mang những nét đặc trưng riêng. Vì vậy, mọi người cần phải nắm rõ các quy định liên quan để hạn chế tranh chấp không đáng có, đảm bảo ổn định cho quan hệ cha, mẹ, con, và yên tâm nuôi dạy con trong điều kiện tốt nhất.